A. DẪN NHẬP
Nói đến tinh thần yêu
nước thì mỗi dân tộc ai cũng có. Nhưng nói đến cái dũng mãnh và mưu trí thì dân
tộc ta vượt trội hoàn toàn. Thể hiện rõ trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên
Mông của nhà Trần, cuộc kháng chiến của Nghĩa quân Lam Sơn chống giắc Ngô, Trận
Điện Biên Phủ của thời Cách mạng tháng Tám, một dân tộc nhỏ về số lượng dân số và
diện tích đất đai – nhưng to tinh thần dân tộc và mưu dũng. Cái tinh thần đó
được ghi chép lại ở nên văn học Việt Nam chúng ta. Trong dòng văn học ca
ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học, “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi được đánh giá là ánh “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập
thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào. Nó luôn
thôi thúc bao thế hệ tìm tòi và nghiên cứu về nó, đối với người viết cũng rất
sai mê và tự hào về những án văn bất hủ này.
"Bình Ngô đại
cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi
cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân
Minh buộc phải kí hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập
tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi (1380-1442) là một anh hùng dân tộc, là người
toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam . Ông có
công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ
tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học
trung đại Việt Nam .
Tác phẩm “Bình Ngô đại
cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng
biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại
liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có
Ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm
ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc,
viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh
động, gợi cảm.
“Đại
cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của
dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học,
không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào
dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam .
Ngày nay, với xu thế phát
triển của thế giới vượt bậc, trước mọi kẻ thù lâm le. Cuộc chiến hiện nay không
bằng gươm giáo nữa, mà là chính trị và kinh tế. Vậy mỗi người con dân đất Việt phải có tinh thần như thế
nào, và phải làm gì cho đất nước chúng ta. Làm gì để không hổ thẹn khi đọc
những án văn bất hủ, mà đầy tính yêu nước thương dân, tự hào nền văn hiến dân
tộc, tinh thân nhân đạo nói chung và của trái tim mỗi người. Người viết cũng
rất háo hức với tinh thần chung đó và nhân đây xin trình bày những điều tâm đắc
của người viết khi đọc qua tác phẩm này.
B. NỘI DUNG
1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG QUÂN MINH
1.1 TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC
Năm Đinh Hợi(1407), ngay
sau khi đập tan hoàn toàn lực lượng kháng chiến của nhà Hồ, quân Minh liền
thiết lập một hệ thống chính quyền đô hộ trên đất nước ta. Thời thuộc Minh(1407
– 1427) là thời của hai dòng lịch sử cùng đồng thời tồn nhưng lại khác nhau
hoàn toàn về chất.
Dòng thứ nhất là dòng áp
đặt, dòn phản ánh ý chí thống trị của quân minh cướp nước. Quân Minh đã kết hợp
giữa đàn áp với mua chuộc và giữa nô dịch với đồng hóa, khiến cho xã hội đương
thời phải chiu trăm bề cực nhọc, đúng như Nguyễn Trãi đã viết:
“thui dân đen trên ngọn
lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm
tai vạ”
(Nguyễn
Trãi, Bình Ngô Đại Cáo)
Dòng thứ hai là dòng quật
khởi, dòng phải ánh ý chí kiên cường và bất khuất của nhân dân ta. Bấy giờ,
hàng loạt những cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ và nhiều phong trào đấu tranh khác nhau
đã liên tiếp bùng nổ: đó là khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng ( 1407 –
1413); khởi nghĩa Phạm Ngọc( 1419 – 1420); Khởi nghĩa Lê Ngã(1419 – 1420) và
phong trào Áo đỏ(1407 – 1427) … tuy nhiên, lớn nhất và cuối cùng đã giành được
thắng lợi trọn ven và vang dội nhất vẫn là khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi
xướng và lãnh đạo(1418 – 1427).
1.2
LÊ LỢI PHẤT CỜ KHỞI NGHĨA
Sau 3 lần chiến thắng
quân Nguyên đầu thế kỷ thứ 13, nước Đại Việt vẹn toàn. Quốc đô an bình được hơn
120 năm. Đến giữa thế kỷ 15, năm 1400 khi nhà Hồ thay nhà Trần trị vì đất nước,
lo toan chuẩn bị chống âm mưu xâm lược của nhà Minh (Trung Hoa). Cuối năm 1406,
Trương Phụ cầm đầu 20 vạn quân nhà Minh xâm lược nước ta, lần lượt chiếm đóng
hết các địa phương cho đến tận Nghệ An, biến Quốc đô thành chiến địa lần thứ 5
(lúc này gọi là Đông Đô). Hồ Quý Ly ra sau hai năm chống giặc ngoại xâm đã bị
thất bại.
Quân Minh chiếm đóng cai
trị nước ta với chính sách cực kỳ tàn bạo. Bị áp bức nặng nề, nhân dân ta nổi
dậy khắp nơi, liên tiếp chống lại giặc Minh. Mùa xuân năm Bính Tuất (7-2-1418)
Lê Lợi – Nguyễn Trãi tụ nghĩa ở Lam Sơn tụ được nhiều nhân tài, hào kiệt tham
gia cùng nhân dân ủng hộ. Từ cuộc khởi nghĩa ban đầu đã dấy lên cuộc kháng
chiến chống quân Minh suốt 10 năm.
Từ năm 1418 đến năm 1422,
quân Minh liên tiếp mở các cuộc tấn công vây quét thành những chiến dịch mấy
vạn quân, kéo dài 2, 3 tháng để tìm diệt nghĩa quân, dập tắt phong trào kháng
chiến. Quân ta đã một lòng vượt qua muôn vàn khó khăn, anh dũng chiến đấu “lấy
ít địch nhiều, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, thu
phục được lòng người, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân tiếp tục bùng phát chống
quân Minh.
Với kế sách của Nguyễn
Trãi, cùng chiến thuật quân sự tài tình của Lê Lợi nghĩa quân càng đánh càng
mạnh, phát triển và bảo tồn được lực lượng, trưởng thành, thắng nhiều trận lớn,
duy trì được cuộc kháng chiến cứu nước trong suốt 10 năm ròng rã “nếm mật, nằm
gai”.
Đến tháng 9-1424, khi
quân Minh ngược dòng sông Lam mở các cuộc hành quân tìm diệt lực lượng, đánh
phá căn cứ ta Lê Lợi – Nguyễn Trãi đã tập trung tướng lĩnh, nghĩa quân phục
kích đánh thắng nhiều trận lớn “thuyền giặc đắm ngang dòng, xác địch nối lấp
sông, khí giới thu chất đầy khe núi”. Thừa thắng quân ta tiến đến bao vây thành
Nghệ An, đồng thời đánh chiếm các châu, huyện, phủ xung quanh. Có nơi 8.000
quân địch xin hàng theo nghĩa quân chống giặc Minh. Chỉ sau 3 tháng ta giải
phóng hầu hết tỉnh Nghệ An, cô lập hai thành Diễn Châu và Nghệ An… từ tháng
9-1426, Lê Lợi – Nguyễn Trãi quyết định chuyển quân ra Bắc Hà. Quân ta đã đánh
thắng nhiều trận lớn, trong đó có trận Tốt Động – Chúc Động (Chương Mỹ – Hà
Tây) tiêu diệt 5 vạn tên – một trận thắng nổi tiếng.
Sau những thất bại nặng nề liên tiếp, địch phải co lại cố thủ để xin tăng viện từ chính quốc. Vương Thông dao động, “trá hàng” chờ viện binh. Ngày 18-10-1427, Liễu Thăng chỉ huy 10 vạn quân hướng chủ yếu vào Lạng Sơn. Mộc Thạch chỉ huy 5 vạn vào hướng Hà Giang để giải cứu cho Vương Thông trong kinh thành Đông Đô. Ta chủ động vây thành diệt viện binh “Viện binh bị tiêu diệt thì thành phải hàng – Đánh một mà được hai” theo kế sách của Nguyễn Trãi.
Sau những thất bại nặng nề liên tiếp, địch phải co lại cố thủ để xin tăng viện từ chính quốc. Vương Thông dao động, “trá hàng” chờ viện binh. Ngày 18-10-1427, Liễu Thăng chỉ huy 10 vạn quân hướng chủ yếu vào Lạng Sơn. Mộc Thạch chỉ huy 5 vạn vào hướng Hà Giang để giải cứu cho Vương Thông trong kinh thành Đông Đô. Ta chủ động vây thành diệt viện binh “Viện binh bị tiêu diệt thì thành phải hàng – Đánh một mà được hai” theo kế sách của Nguyễn Trãi.
Quyết chiến điểm mai phục trận diệt
viện binh trên hướng Lạng Sơn xuống là ải Chi Lăng với 4 vạn quân cơ động phục
kích. Liễu Thăng hùng hổ dẫn đầu 1 vạn quân vào Đông Đô vào ngày 20-10-1427.
Đúng vào kế mai phục của ta, cả vạn quân địch “tiên phong” này bị tiêu diệt và
tan rã hoàn toàn. Liễu Thăng bị Trần Lựu của ta chém đầu tại trận bên sườn núi
Mã Yên. Tiếp theo, trong gần một tháng sau ta tiêu diệt, đánh tan tác 7 vạn
tên, bắt sống 3 vạn tên. Phía Hà Giang 5 vạn quân của Mộc Thạch bị tiêu hao
phải tháo lui qua biên giới với các trận bám đánh của địa phương quân ta. Viện
binh cả hai hướng đều bị tiêu diệt và tháo chạy, Vương Thông hoàn toàn bị cô
lập mất hết nhuệ khí, hy vọng vào viện binh từ chính quốc tan tành, nên y đã
xin Lê Lợi cho đầu hàng.
Ngày 16-12-1427, Nguyễn
Trãi đã tổ chức “Hội thề Đông Quan” (phía Nam Hoàng Thành) để Vương Thông đọc
lời thề cam kết xin rút hết quân về nước và không bao giờ xâm phạm Đại Việt
nữa. Cuối năm đó Lê Lợi đã cấp thuyền, ngựa, lương thực cho 86.000 quân sĩ
Vương Thông triệt thoái an toàn khỏi nước ta. Đồng thời gửi sang vua nhà Minh
mũ mão, xiên giáp, ấn tín của Liễu Thăng và nhiều tên tướng khác cùng với danh
sách 27.000 tên tù binh.
Sau 10 năm kháng chiến
thắng lợi (1418-1428), vào ngày 15-4-1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế tại điện
Kính Thiên trong Hoàng Thành, giữ quốc hiệu là Đại Việt, quốc đô là Đông Đô
2. ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Nguyễn
Trãi là người toàn đức, toàn tài và cũng là tác gia vĩ đại trong lịch sử văn
học dân tộc thời trung đại. điều này thể hiện rõ trong sự nghiệp cứu nước của
ông.
2.1 TÁC GIẢ
Nguyễn Trãi, tên thật là Ức Trai, quê
gốc ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.
Sau di cư về làng Ngọc Hồi, ngày nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây.
Nguyễn Trãi là con đầu của Nguyễn Ứng Long( sau đổi là Nguyễn Phi Khanh) và là cháu ngoại quan tư đồ Trần
Nguyên Đán, nhà thơ xuất sắc cuối triều trần.
Lúc còn trẻ, Nguyễn Ứng Long nổi
tiếng là hay chữ, nên được Trần Nguyên Đán dời về nhà dạy học cho các con gái.
Sau một thời gian, ông đã yêu Trần Thị Thái, con gái đàu của quan tư đồ Trần
Nguyên Đán, rồi được quan tư đồ vui lòng cho ông và cô Thái kết hôn và sau đó
hạ sinh Nguyễn Trãi.
Năm 1374, Nguyễn Ứng Long thi đậu
tiến sĩ nhưng vì là bân nhân mà dám lấy con gái quý tộc, nên không được làm quan
mà chỉ giữ chứ quan nhỏ. Về sau ông ngoại về hưu thì đem Nguyễn Trãi theo,
chẳng bao lâu thì mẹ mất, rồi năm 1390 ông ngoại cũng qua đời, Nguyễn Trãi trở
về lại với cha ở Nhị Khê. Tại đây ông được cha dạy dỗ. Năm 1400 Hồ Quí Ly cướp
ngôi nhà Trần rồi tổ chức khoa thi, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh, liền sau
đó được trao chức Ngự Sử đài chánh trưởng. Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn
Phi Khanh, cùng ra làm qua với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, cha
con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Trung Quốc. Nhiều bề tôi nhà Hồ cũng bị bắt hoặc
buộc phải ra hàng, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi muốn trọn đạo
hiếu, bèn đi theo cha, nhưng Khanh dạy: “tìm cách rữa nhục cho nước, trả thù
cho cha thì mới đại hiếu”. Y theo lời cha, tuy bị giặc dùng mọi cách để dụ dỗ
hoặc chiêu hàng nhưng ông một mực từ chối và đã bị giặc giam lõng ở Đông Quan.
Khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa thì Nguyễn Trãi đã có mặt rất sớm trong cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn này. Ông dâng cho Lê Lợi bản Bình Ngô sách(sách lược đánh giặc
Ngô), trong đó ông vạch ra phương án cơ bản muốn thắng giặc Ngô là phải “không
nói đén việc đánh thành mà nói đến việc đánh vào lòng người”(Ngô Thế Vinh). Tư
tưởng này là một trong những nhân tố quyết định việc thắng lợi của nghĩa quân
Lam Sơn
Trong thời gian kháng chiến, Nguyễn
Trãi giúp Lê Lợi trù hoạch quân mưu, góp phần xây dựng chính quyền độc lập với
chính quyền xâm lược, và cũng giúp Lê Lợi soạn thảo những thư từ giao thiệp với
quân Minh.
Cuối năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn vây
thành Đông Quan, tại đây ông được phong chức Thượng thư bộ lại kiêm Hành khu
mật viện sự. Đên năm 1482, cuộc kháng chiến thắng lợi, đất nước độc lập, Nguyễn
Trãi thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô Đại Cáo nổi tiếng đến giờ và nó được xem bản
hùng văn tuyên ngôn độc lập nước ta lần thứ hai.
Khi đất nước hòa bình, luận công khen
thưởng Nguyễn Trãi được ban họ vua, được ban chức Quan Phục hầu vẫn giữ chứ
Triều liệt đại phu. Ông cũng đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước
vừa được giải phóng, thay vua viết nhiều chiếu, chế ban bố cho thần dân.
2.2 TÁC PHẨM BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
Mở đầu bài cáo, tác giả
nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lí cho toàn bài.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân
Quân điếu phạt trước lo
trừ bạo.
Đó là tư tưởng nhân
nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yên dân”,
“trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nó đã được chứng minh bằng sự
tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lí lịch sử:
Như nước Đại Việt ta từ
trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã
lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần;
bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống,
Nguyên;
Mỗi bên hùng cứ một
phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác
nhau,
Song hào kiệt thời nào
cũng có.
Có đủ tất cả các yếu tố
của một quốc gia độc lập tự chủ : quốc hiệu (tên nước), văn hiến, lãnh thổ,
phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được xây dựng từ bao
đời.Những lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, có ý khẳng định chắc chắn, NgTrãi đã
khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc.NgTrãi nêu bật lịch sử các triều
đại bằng phép liệt kê, song hành, đã khẳng định lịch sử dài lâu của đất nước,
đồng thời khẳng định tư thế độc lập ngang hàng của ĐViệt với các triều đại
phong kiến phương Bắc. Nó còn như khẳng định về hậu quả thất bại tất yếu của kẻ
thù khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên
thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải
vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa
Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi
Ô Mã
Nguyễn Trãi đã cho ta
thấy những chiến công oanh liệt của dtộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc.Cách nêu dẫn chứng rõ ràng cụ thể bằng những
lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào dtộc.
Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh lại càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lí, TRần của VN ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng khống thể có một sự so sánh như vậy.
Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh lại càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lí, TRần của VN ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng khống thể có một sự so sánh như vậy.
Đoạn 2 là một bản cáo
trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh.Nguyễn Trãi đã lột
trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc mInh đã
thừa cơ vào cướp nước ta:
Nhân họ Hồ chính sự phiền
hà
Để trong nước lòng dân
oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ
gây họa
…….
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai
mươi năm.
Tác giả khẳng định đó là
tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động tội ác man rợ
của chúng. Nào là tàn sát, giết hại nhân dân kể cả các em nhỏ cũng không tha:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”.Rồi chúng
lại bóc lột dân ta bằng thuế khoá nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên đất nước,
đẩy người dân đến chỗ đường cùng, thậm chí tính mạng không được đảm bảo: Người
bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem
vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Còn dã man, tàn bạo đến
mức:
Tàn hại cả giống côn
trùng cây cỏ,
Nheo
nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Nặng
nề những nỗi phu phen,
Tan
tác cả nghề canh cửi.
Hậu quả bọn chúng để lại
thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn
loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực. Để nêu rõ
tội ác của quân xâm lược, tác giả đã dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử
dụng những câu văn giàu hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với
cảm xúc.Lúc thì tỏ ra căm phẫn, tức giận đến thấu xương cái lũ xâm lược tàn
bạo, lúc thì lại thể hiện sự xót xa, đau đớn cho nhân dân ta.
Ở phần đầu bản cáo trạng
là một hình ảnh đầy ấn tượng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ
xuống dưới hầm tai vạ”, để rồi két thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết
cao: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội- Dơ bẩn thay, nước Đông hải
không rửa sạch mùi”. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của
nhân dân ta về tội ác của chúng:
Lẽ nào
trời đất dung tha
Ai bảo
thần nhân chịu được?
Năm 1406 quân Minh xâm
lược nước ta. Ách đô hộ của giặc Minh đè nặng lên các tầng lớp nhân dân ta. Năm
1416, ở đất Lam Sơn- Thanh Hoá, Lê Lợi và 18 người cùng chí hướng đã làm lễ ăn
thề ở Lũng Nhai, nguyện sống chết cùng nhau đuổi giặc cứu nước. Nguyễn Trãi-
một tài năng xuất chúng, nổi bậc lên trong hàng ngũ tướng lĩnh nghĩa quân Lam
Sơn. Ông đã góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Trong niềm hân
hoan của cả dân tộc, tháng 2 năm 1428 Bình Định Vương Lê Lợi giao cho Nguyễn
Trãi viết “ Bình Ngô đại cáo” tuyên bố cuộc đấu tranh chính nghĩa đã thắng lợi.
“Bình Ngô đại cáo” thắm
đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến.
Nhân nghĩa là tư tưởng
của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục
đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc
của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà
bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc ,đau thương.
“Từng
nghe:
Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân
điếu phạt trứơc lo trừ bạo”
Nhân nghĩa là tinh thần
vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây
không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an
dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm
trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.
Nhân nghĩa gắn liền với
việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc
lập dân tộc: “ Nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi
sông bờ cõi đã riêng. Phong tục Bắc Nam cũng khác” là niềm tự hào dân
tộc "…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian
tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
“Quân
cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
Bọn
gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi
con đỏ xuống hầm tai vạ”
Nhân nghĩa còn là sự chia
sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc…. Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc…. Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Nhân nghĩa là cội nguồn
của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại.
Bọn giặc Minh xâm lược đã:
“Dối
trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây
binh, kết oán trãi hai mươi năm
Bại
nhân nghĩa, nát cả đất trời”
Họ không có nhân nghĩa vì
vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để
ngàn năm”
Nhân
nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:
“Đánh
một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh
hai trận, tan tác chim muông”
Quân
ta chiến thắng vì đã:
“Đem
đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy
chí nhân thay cường bạo”
Nhân nghĩa còn là tinh
thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại , là sự hiếu sinh, hiếu hoà,
sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở
đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong: “Tướng giặc bị cầm tù như
hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng. Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường
hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,ra đến bể mà vẫn
hồn bay phách lạc.Vương Thông , Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa, về đến nước
mà vẫn tim đập chân run.” Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng. Ta lấy
toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Cuộc kháng chiến chống
quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh
thần quật khởi của một dân tộc anh hùng.
Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
- Tư tưởng nhân nghĩa:
Việc nhân dân nghĩa cốt ở yên dân
Quân
điếu phạt trước lo trừ bạo
Đập
lại luận điệu của quân Minh
Quá
trình cuộc kháng chiến :
Đường lối chiến lược, chiến
thuật ở đây bao trùm từ đường lối cứu nước đến phép dùng binh đánh trận.
“ Quên
ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh
Ngẫm
trước đến nay lẽ hươngphế đắn đo càng kĩ”
Suy nghiệm về lẽ hưng phế
của các triều đại ở nước ta từ thế kỉ thứ X đến bây giờ để rút ra những kinh
nghiệm : muốn chiến thắng kẻ thù phải biết dự vào toàn dân, nhân dân lao động.
Đó chính là cái gốc để cho triều đại được bền vững lâu dài. Cái đường lối chiến
lược, chiến thuật đó được thể hiện khá cụ thể :
“ Thế trận xuất kì lấy
yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục lấy ít
địch nhiều”
“Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn
Lấy chí nhân để thay
cường bạo”
Giai đoạn đầu của cuộc
kháng chiến:
Giai đoạn đầu của cuộc
kháng chiến nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu nhân lực, thiếu
người tài giỏi, thiếu lương thực, nhiều khi bị quân Minh Đánh cho tan tác.
“ Tuấn kiệt như sao buổi
sớm
................................................
Khi Khôi Huyện quân không
một đội”
Giai
đoạn sau của cuộc kháng chiến :
Tuy gặp khó khăn, thất
bại lúc ban đầu nhưng nhờ có tinh thần quyết tâm chiến đấu, “ Gắng chí khắc
phục giang nan”, được nhân dân khắp nơi ủng hộ, tướng sĩ trên dưới một lòng, có
đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn nên nghĩa quân Lam Sơn càng đánh
càng chiến thắngvang dội, không có sức mạnh nào có thể ngăn được sức tiến công
vang dội như vũ bão của nghĩa quân:
“Đánh một trận, sạch
không kinh ngạc
Đánh hai trận tan tác
chim muông
Nỗi gió to quét sách lá
khô
Thông tổ kiến phá toang
đê vỡ”
Chỉ trong vòng mười ngày
mà nghĩa binh đã làm nên những kì tích anh hùng chưa từng có:
“ Ngày mười tám, trận Chi
Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã
Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm nhăm, bá tước
Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư
Lý Khánh cùng kế tự vẩn”.
Cái hào khí ngất trời của
Nguyễn Trãi còn thể hiện qua việc ông miêu tả sự thất bại thảm hại của quân
Minh bằng cách dùng hình ảnh, từ ngữ sinh động, cụ thể đầy gợi tả như : “ Nghe
hỏi mà thất vía”, “ Nín thở cầu thoát thân”, “ bêu đầu”, “ bỏ mạng”, “ Liễu
Thăng cụt đầu”, “đại bại tử vong”. “ cùng kế tự vẩn”, “ lê gối vâng tờ tại
tội”, “ trói tay để tự xin hàng” ....nhất là đã gọi vua nhà Thanh là “ thằng
nhải con Tuyên Đức”. Chưa bao giờ cái hào khí dân tộc lại dâng cao như lúc này.
Trong phần này, tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi lại được khắc sâu thêm một lần nữa. Ông đặt quyền
lợi của nhân dân, đất nước lên trên hết nên đã tha chết cho kẻ thù khi chúng bị
thất bại, còn cấp thuyền cấp ngựa cho chúng về nước:
“ Thần Vũ chẳng giết hạ,
thể lòngtrời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp
cho năm trăm chiếc thuyền
Ra đến bể mà vẫn hồn bay
phách lạc
Vương Thông, Mã Anh phát
cho vài nghìn cổ ngựa
Về đến nước mà vẫn tim
đập, chân run
Họ đã tham sống, sợ chết
mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn,
để nhân dân nghỉ sức”.
Phần kết thúc.
Nguyễn Trãi đã thay mặt
Lê Lợi tuyên bố kết thúc cuộc kháng chiến:
Xã tắc
từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bỉ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại
minh.
Đồng thời Nguyễn Trãi đã
khẳng định quyền đôc lập, tự chủ lâu dài của đất nước:
Muôn
thuở nền thái bình vững chắc.
Lịch sử sang trang, đất
nước bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của hoà bình độc lập tự do :
“ Một cổ nhung y chiến
thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh
bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”
3. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG
3.1 TINH THẦN YÊU NƯỚC
Bình Ngô đại cáo cũng
phát biểu chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi và thể hiện một tài năng tuyệt vời
về nghệ thuật viết hung văn của tác giả. Tình cảm thương dân, tinh thần trọng
dân, ý chí vì dân là nội dung quán xuyến trong thơ văn Nguyễn Trãi, là mệnh đề
nổi bật trong chủ nghĩa yêu nước Nguyễn Trãi. Nhận thức ve người dân của ông là
một nhận thức sâu sắc và nảy sinh từ thức tiễn. khi nêu cao vị trí và vai trò
người dân. Nguyễn Trãi đã phản ảnh thực tế của lịch sử cũng như yêu cầu lịch
sử. nói đến nước là nói đến dân, hơn nữa trước hết là nói đến dân, nhân dân lại
cần phải có nước. Quan niệm của Nguyễn Trãi về một đất nước, cần nhấn mạnh ý
nghĩa to lớn của truyền thống văn hóa lâu đời mà ông đưa vào bài cáo:
“Như nước Đại Việt ta từ
trước
Vốn xưng nền văn hiến đã
lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.”
Lời tuyên bố, nói lên
nước Việt ta có một nền văn hiến độc lập và đất nước bờ cõi phân chia rõ ràng.
Không phải như sự đầu độc tư tưởng của phương Bắc cho rằng nước ta là do chúng
dựng nên và nền văn hóa cũng như thế. Điều này thật là phi lý. Bởi phong tục
bắc nam đã cũng khác, thể hiện lên nước ta vốn dĩ đã được hình thành và phát
triển tự thân, trãi qua bao thăng trầm lịch sử mà vẫn thích nghi và giữ gìn
được bản sắc của mình. Thế nên sao gọi là phương Bắc truyền dạy nên văn minh.
Vấn đề này đã thể hiện rõ tính dân tộc và tinh thần yêu quê hương đất nước sâu
sắc, bắt buộc phải giữ gìn không một ngoại bang nào có thể xâm phạm.
Đây là một văn bản chính
thức của nhà nước, thì chính là để khẳng định tính độc lập của nền văn hóa dân
tộc, chính là để tự hào về nền văn hóa dân tộc. Bình Ngô đại cáo chính là bản
Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc. Bài cáo đã thể hiện nổi bật lòng
yêu nước thương dân tha thiết, lòng căm thù giặc sâu sắc hào khí ngất trời của
Nguyễn Trãi trước những chiến thắng oanh liệt trong cuộc đấu tranh giữ nước vĩ
đại của thời đại ông và của cả dân tộc.
3.2 SỰ NHẬN THỨC CỦA NGUYỄN TRÃI VỚI
DÂN
Tinh
thần chủ đạo, lấy dân làm gốc, nhận thức được nền tảng chiến thắng chính yếu là
nhờ vào lòng dân, nhờ vào ý chí một lòng của dân. Nguyễn Trãi đã nhận thức được
vấn đề này, cùng với lòng nhân đạo và tinh thần yêu nước nồng nàn, ông khẳng
định:
“Việc
nhân dân nghĩa cốt ở yên dân
Quân
điếu phạt trước lo trừ bạo”
Thấy lũ quân ác bá cướp
nước chúng chẳng phải là nhân nghĩa gì cả. Chỉ toàn là cướp bóc một cách tàng
bạo: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”. Chí
câm hờn và tức tối của Nguyễn Trãi càng nung nấu sôi sục hơn bởi lũ ngoại ban
vơ vét tài nguyên đất nước, bắt đóng thuế khóa nặng nề, bắt dân ta làm chuyện
nguy hiễm đến tính mạng, coi mạng sống dân ta thật khác nào nô lệ cỏ cây: Người
bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem
vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Còn dã man, tàn bạo đến
mức:
“Tàn hại cả giống côn
trùng cây cỏ,
Nheo
nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Nặng
nề những nỗi phu phen,
Tan
tác cả nghề canh cửi.”
Thấy
vậy ai mà không thương tâm cho tình cảnh đất nước đang bị dầy xéo, dân ta đang
bị áp bức bóc lột một cách dã man. Thấy vậy ai mà không câm phẩn bọn giặc Ngô.
Tình cảm thương dân, đau cùng nỗi đau của dân, tận mắt chứng kiến: gia đình tan
nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản
xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực, thật đau lòng. Và cũng chính lòng yêu nước
này, thương dân này, mọi người con dân đất Việt ai cũng có. Cho nên, dù rằng là
tình cảm và lòng nhiệt quyết của Nguyễn Trãi với đất nước, với nhân dân, nhưng
cũng đồng thời Ông đã quật dậy ý chí kiêng cường bất khuất của toàn dân, quật
dậy tình cảm yêu cuộc sống thanh bình, yêu gia đình quê hương đất nước của mọi
người. Từ đó mà trên dưới một lòng chống ngoại bang. Đây cũng khẳng định tinh
thần đoàn kết toàn dân của Nguyễn Trãi, mà cũng đề cao vai trò chiến thắng là ở
toàn dân và luôn đặt lợi ích của dân lên trước nhất. Chính vì chính nghĩa này
nên cuộc chiến thắng lợi.
3.3 TINH THẦN NHÂN ĐẠO CỦA NHÂN DÂN
TA
Lý tưởng nhân nghĩa của
nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách mạnh mẽ
ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm :
“Nhân nghĩa chi cử, yếu
tại an dân”
Nhân nghĩa trước hết và
hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no, yên ổn
cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình,
ông không ít lần nhắc đến điều đó :
“Dẽ có
Ngu cầm đàn một tiếng.
Dân
giàu đủ khắp đòi phương”
Cũng luôn cánh cánh “làm
cho khắp thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu”. Điều quan trọng
là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý
tưởng. Mặt khác, ngay ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi không nói đến nhân nghĩa
một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt
nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn theo đuổi
và thi hành tư tưởng nhân nghĩa không có cách nào hơn là hướng tới cuộc sống
nhân dân.
Vấn đề cốt lõi đó của tư
tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất : quan tâm đến sự yên
ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của
nhân dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được
Nguyễn Trãi xác định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là bọn “cuồng Minh” giày xéo
lên cuộc sống nhân dân gây ra bao tai hoạ, đến mức:
Độc ác
thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội.
Nhơ
bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi
Đây là một nét mới mà
Nguyễn Trãi chỉ ra trong tư tưởng nhân nghĩa dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử
dân tộc. Nội dung này không thấy trong tư tưởng, triết lý nhân nghĩa của đạo lý
Khổng - Mạnh. Ngay trong nét nghĩa mới này vẫn thể hiện sự nhất quán với truyền
thống nhân nghĩa đã xác định ở đầu tác phẩm.
Nhân nghĩa trước hết thể
hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan hệ với kẻ
thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc
bằng mưu kế và đánh vào lòng người: “mưu phạt, tâm công”. Với tư cách là vị
quân sư lỗi lạc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã không ít lần dùng
những áng văn chính luận “có sức mạnh hơn 10 vạn binh” của mình để công phạt,
khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà chịu khuất”. Không những
thế, khi bọn chúng đã khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở cho chúng con
đường sống:
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường
hiếu sinh
Cấp cho phương tiện trở
về:
Mã Kì, Phương Chính, cấp
cho năm trăm chiếc thuyền...
Vương Thông, Mã Anh, phát
cho vài nghìn cỗ ngựa...
Dùng nhân nghĩa để đối xử
với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để không gây hậu họa về sau cũng chính là đại
nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống
sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng. Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ
sức".
Có thể nói, tư tưởng nhân
nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa toàn diện,
vừa cụ thể ; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới
mẽ. Bởi thế nó trở thành điểm ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho
mọi hành động. Soi chiếu vào thực tiễn cuộc kháng chiến tư tưởng nhân nghĩa cao
đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn :
Đem đại nghĩa thắng hung
tàn
Lấy chí nhân thay cường
bạo
Với lí tưởng nhân nghĩa
ấy, quân dân ta có thể khắc phục và vượt qua những khó khăn tưởng chừng không
thể :
Khi Linh Sơn lương hết
mấy tuần.
Khi Khôi Huyện quân không
một đội
Để rồi từ đó có thể lấy
ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên thắng lợi vang dội, giúp cho :
Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới
...Muôn thuở nền thái
bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã
sạch làu
Có thể nói, Nguyễn Trãi
đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống, một
nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình
tượng nghệ thuật giàu sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn
cùng sự vững bền vĩnh cửu của dân tộc, đất nước.
C. KẾT LUẬN
Bình
Ngô đại cáo là tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Trãi. Tác phẩm có giá trị tư
tưởng, văn học thể hiện triết lý sống của dân tộc trong mọi hoàn cảnh,trong
việc đấu tranh cũng như trong hòa bình độc lập. Một tác phẩm được xem là án
thiên cổ hùng văn, vô tiền khoán hậu. Viết cho Lê Lợi thay mặt quốc gia để đọc
tuyên cáo về cuộc chiến của dân tộc ta mất nhiều mất mát nhưng điểm cuối cùng
tạo nên bản thiên hùng ca kết thúc thắng lợi.
Bình Ngô đại cáo là hiện
tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam . Với ngòi bút của người anh
hùng dân tộc Nguyễn Trãi - nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến - bài
cáo không chỉ là sự tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp “Bình Ngô” như mệnh
lệnh mà Lê Lợi giao phó. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn”
muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế
dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy
chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.
Bình Ngô đại cáo chính là
bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc. Bài cáo đã thể hiện nổi bật
lòng yêu nước thương dân tha thiết, lòng căm thù giặc sâu sắc hào khí ngất trời
của Nguyễn Trãi trước những chiến thắng oanh liệt trong cuộc đấu tranh giữ nước
vĩ đại của thời đại ông và của cả dân tộc.
Chúng ta đều biết, bài
Cáo được Nguyễn Trãi viết thay mặt Lê Lợi sau khi giặc Minh thất bại nhục nhã
phải rút về nước. Phải chăng đây là một thông điệp cho nhà Minh? Khả năng này
hầu như không thể có vì giặc xâm lược đã rút về, nhiệm vụ lịch sử lớn nhất là
giành lại độc lập dân tộc với giá hy sinh thấp nhất đã hoàn thành. Với chủ
trương hoà hiếu, để nhân dân hai nước nghỉ sức, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ
trương khoan hồng, cấp lương thực và phương tiện cho chúng về nước.
Là một thông điệp hướng
tới nhân dân Ðại Việt, Bình Ngô đại cáo muốn nói những gì với người nước
Việt? Ðức lớn nhất, đó là hiếu sinh,
biểu hiện cụ thể nhất qua nhân nghĩa. Hiếu sinh áp dụng cho muôn vật, nhân
nghĩa là hiếu sinh áp dụng cho con người. Lê Lợi tích luỹ đủ năng lượng Ðức qua
lòng nhân nghĩa, qua đức hiếu sinh được trời, người mến mộ và Ðức đó đã được
kiểm chứng thực tế qua cuộc kháng chiến vừa xảy ra. Vì vậy, lên ngôi Thiên tử,
thế thiên hành hoá, đại thiên hành hoá là một việc hết sức tự nhiên.
Triết học lịch sử của
Nguyễn Trãi thật minh bạch: Nhân nghĩa là đạo người mà cũng là đạo trời. Có
nhân nghĩa sẽ được người, trời ủng hộ, sẽ thành công. Bất nhân bất nghĩa sẽ
thất bại. Phải chăng còn có một thông điệp ngầm ẩn nào đó gửi gắm cho chính Lê
Lợi hay những bậc trị vì của các triều đại sau đó hãy nhớ đến bài học lịch sử
quan trọng này?
Nói đến tinh thần yêu đất
nước và bảo vệ đất nước rất bao la và rộng lớn, nhưng không phải chỉ một người
hoặc một nhóm người nào đó mà làm cho đất nước này giàu đẹp và hòa bình được.
Mà cần phải chung tay xây đấp, mỗi người đống góp một công sức, một khía cạnh
nào đó bằng cả cái tâm của mình. Để không thẹn với Người dựng nước và Người giữ
nước.