Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012

BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA THIỆN HỮU SOẠN




TOÀN THỂ THÀNH VIÊN TỔ 4 

KÍNH ĐẢNH LỄ GIÁO THỌ SƯ
VÀ 
ĐẠI CHÚNG

KÍNH ĐẾN LỜI CHÀO THÂN THƯƠNG ĐẠO VỊ



TỔ 4 XIN ĐƯỢC THUYẾT TRÌNH ĐỀ TÀI


ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
II. NỘI DUNG
1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NGƯỜI ĐỀ XUẤT
2. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT
3. KHÁI NIỆM TRÊN NGÔN NGỮ VỀ ĐỐN NGỘ - PHẬT TÁNH
a. Đối với đốn ngộ là tiệm ngộ
Tiệm Ngộ:.
Đốn ngộ:
b. Đốn ngộ thành Phật:
4. NGỘ LÝ BẤT NHỊ, PHÙ HỢP LÝ BẤT PHÂN
5. KIẾN GIẢI VỚI VĂN GIẢI
6. TẠ LINH VẬN – NĂNG CHÍ VỚI NHẤT CỰC
Thuyết Năng chí với Nhất cực:
Tiểu sử của Tạ Linh Vận:
7. NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI VIẾT
Xuất nguồn tư tưởng
* kinh Duy Ma Cật sở thuyết
* kinh Đại Bát Niết Bàn
* kinh Thủ Lăng Nghiêm
* Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
* Kinh Hoa Nghiêm 
III. KẾT LUẬN
I. NHẬP ĐỀ
vì chúng sanh đều có Phật tánh nên mỗi chúng sanh đều có khả năng để thành Phật là điều tất yếu. Việc thành Phật theo ngài Trúc Đạo Sinh cho rằng con người có thể thành Phật môt cách nhanh chóng, không qua thứ lớp, tức là “ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT”.
II. NỘI DUNG
1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NGƯỜI ĐỀ XUẤT
Đạo Sanh (道 生, khoảng 360-434) là một Phật học gia lỗi lạc của Phật giáo Trung Hoa. Đại sư sinh tại Bành Thành, xuất gia và tu học với Trúc Pháp Thái (319-387) (1) tại Kiến Khương.
của Đạo Sanh qua việc ngài được đặt vào ngôi vị hàng đầu của "tứ kiệt" (4), đứng đầu Bát Hùng và Thượng thủ mười lăm đệ tử xuất chúng của La-thập.
Sư quan niệm rằng, bất cứ ai cũng có Phật tín, bất cứ ai cũng có thể thành Phật tức khắc “Đốn Ngộ Thành Phật”
Cũng trong thời gian này, Đạo Sanh xướng thuyết "Nhất-xiển-đề-ca cũng có Phật tánh"; Nhất-xiển-đề-ca (icchantikas) vốn là hạng người bị xem là hạ tiện không có tánh thể giác ngộ (tức Phật tánh) cho nên không thể đạt được giác ngộ
Đến năm 434, đại sư thị tịch trong lúc giảng pháp đến phần kết, vẫn trong tư thế ngồi, ứng với lời thề trong đại chúng về thuyết Nhất xiển đề cũng có Phật tánh.
Đối với Đạo Sinh thì 
Phật tính và tính Không chính là Niết-bàn, là trạng thái không còn phân biệt giữa chủ thể và khách thể. Đối với Sư, không có một Tịnh độ ngoài thế giới này vì chư Phật không hề rời chúng ta, luôn luôn ở trong ta.
2. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT
Trúc Đạo Sanh đưa ra nguyên tắc trọng yếu trong nhận thức luận và phương pháp luận qua đoạn:
《高僧傳》卷7:「夫象以盡意。得意則象忘。言以詮理。入理則言息。自經典東流譯人重阻。多守滯文鮮見圓義。若忘筌取魚始可與言道矣。於是校閱真俗研思因果」(CBETA, T50, no. 2059, p. 366, c14-17)
2. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT
Điều này Đức Phật cũng nói trong Kinh Pháp Hoa, ở phẩm Đề Bà Đạt Da, về việc nàng Long Nữ thành Phật nhanh chóng cho đến chư vị Bồ Tát và ngài Xá Lợi Phất không thể thấu xuốt được nguyên nhân.
“Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:
- Ta ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng:
- Kinh này rất sâu vi diệu là báu trong các kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau được thành Phật chăng?
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:
- Có con gái của vua rồng Ta-kiệt-la mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào Thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát-na phát tâm Bồ-đề được bậc Bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến Bồ-đề.
2. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT
Lúc đó, Long nữ có một hột châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên đem dưng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Trí Tích Bồ-tát cùng Tôn giả Xá-lợi-phất rằng: - Tôi hiến châu báu, đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?
Đáp: - Rất mau.
Long nữ nói:
- Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.
Trí Tích Bồ-tát và ngài Xá-lợi-phất tất cả trong chúng hội yên lặng mà tin nhận đó.
2. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT
Phẩm này nêu lên hai đặc điểm:
- Thứ nhất là bình đẳng giữa thiện và ác, kẻ ác người thiện ai cũng có Tri kiến Phật như nhau. Dù ác dù thiện một phen nhận ra Tri kiến Phật của chính mình thì thành Phật
Ở đây Phật thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa thành Phật là để nói kẻ ác phạm tội ngũ nghịch như Đề-bà-đạt-đa vẫn có Tri kiến Phật, nếu thức tỉnh tu hành thì cũng thành Phật.
Thứ hai là bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người và thú, người nam hay người nữ, kể cả súc sanh đều có Tri kiến Phật. Vì vậy mà Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài sẽ thành Phật.” Đó là để nói lên ý nghĩa này. Ai ai cũng có Tri kiến Phật, nhưng vì quên nên không nhận, vì vậy mà cứ luân hồi mãi trong sáu đường. Nếu nhận ra thì thành Phật, nên ở đây Long nữ khi nghe kinh Pháp Hoa liền tin nhận và thành Phật.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Trích Phẩm 12 “Đề Bà Đạt Đa” trong “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải”
2. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT
Trong kinh Hoa Nghiêm có bài kệ quen thuộc ta hay tụng đọc:
“ nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thuyết duy tâm tạo”
《 大涅盘经集解》 卷一载:「 道生曰:『 夫真理自然, 悟亦冥符。 真则无差, 悟岂容易 ? 不易之体, 湛然常照, 但从迷乖之事, 未在我耳』 
2. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT
隋硕法师 《 三论游意义》 载:「 竺道生师用大顿悟义也, 金刚以还皆是大梦 、 金刚以后皆是大觉也 
3. KHÁI NIỆM TRÊN NGÔN NGỮ VỀ ĐỐN NGỘ - PHẬT TÁNH
 a. Đối với đốn ngộ là tiệm ngộ
Tiệm Ngộ: Tiệm: dần dần. Tiệm ngộ là chứng ngộ dần dần, ví như lại gần đèn chừng nào thì sáng hơn chừng nấy.
Đốn ngộ:
Theo chữ hán thì ta có:
Theo tự điển Phật học, của nguyên hảo, nxb về nguồn, 1999, tr. 207
Đốn ngộ: SUDDEN ENLIGHTENMENT:
SUDDEN: đột ngột
ENLIGHTENMENT: giác ngộ
=> Giác ngộ đột ngột
Theo tự điển Thiều Chửu: Đốn: mau lẹ, tức thì; 6: đốn giáo: chữ trong kinh Phật: dùng một phương pháp tuyệt mầu khiến cho mình theo đó mà tu được tới đạo ngay.
3. KHÁI NIỆM TRÊN NGÔN NGỮ VỀ ĐỐN NGỘ - PHẬT TÁNH
Do đó ta có thể định nghĩa lại như sau:
- Đốn Ngộ: Tỉnh ngộ tức khắc. liền chứng ngộ Phật quả..
- Tiềm ngộ: là giác ngộ từng bậc, thứ cấp, rốt mới đến quả vị Phật gọi là giác hạnh viên mãn.
3. KHÁI NIỆM TRÊN NGÔN NGỮ VỀ ĐỐN NGỘ - PHẬT TÁNH
b. Đốn ngộ thành Phật:
Phật tánh ấy được chứng ngộ tức thì, không qua thứ lớp. 
Bởi Phật tánh vốn là thể tánh vạn pháp, bao trùm vạn pháp, nhưng không phải vạn pháp, mà cũng chẳng phải riêng một pháp nào.
4. NGỘ LÝ BẤT NHỊ, PHÙ HỢP LÝ BẤT PHÂN 
Tức siêu việt những mặt đối lập của thực tại vối chỉ tồn tại thế giới danh ngôn và khái niệm như: Sinh – Diệt, Nhiễm – Tịnh, Sinh Tử - Niết Bàn. 
Trong triệu luận sớ, ngài Huệ Dạt luận thuật về thuyết đốn ngộ của ngài Trúc Đạo Sanh:
慧达的 《 肇论疏》 中引有道生语:“ 夫称顿者, 明理不可分, 悟语照极。 以不二之悟, 符不分之理, 理智恚释, 谓之顿悟。 
4. NGỘ LÝ BẤT NHỊ, PHÙ HỢP LÝ BẤT PHÂN
Ở đây, chân lý Huyền diệu nhất không thể phân cắt. Ngộ là chứng ngộ, chứng đắc chân lý.
4. NGỘ LÝ BẤT NHỊ, PHÙ HỢP LÝ BẤT PHÂN
Chỗ này ta thấy không chỉ vô ngôn mà tâm cũng phải vắng bặc 2 phạm trù đối đãi, trong Kinh Kim Cang có nói: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Tức là dùng tâm không dính mắc mà Ngộ Nhập Phật đạo. 
Hơn nữa, mọi giai đoạn trên đường dẫn đến mục đích, mọi ý tưởng hoặc tiến trình cụ thể nào, dù nó có thể hữu ích như là phương tiện, đều chỉ là đối đãi với nghĩa chân thật rốt ráo, và do vậy, nó có khuynh hướng ngăn ngại mục tiêu tối hậu. Ý nghĩa cuộc đời, hoặc gọi là Lý, còn gọi là thành Phật, không thể nào bị cắt thành từng số mục, nó chỉ có thể được nhận ra một cách trọn vẹn hoặc là không có được cái gì cả.
5. KIẾN GIẢI VỚI VĂN GIẢI
Trúc Đạo Sanh lấy kiến giải có chỗ được lý Phật thâm sâu cho là Ngộ, tri thức có chỗ được qua học tập và nghe hiểu gọi là Tín. Tín không phải hiểu biết cùng tận đạt đến bản nguyện mà là một cách ngộ, đạt đến Đốn Ngộ. Văn Giải là rớt (tạ) mà không khởi tác dụng, giống như trái cây chín rồi từ trên cây rớt xuống. Ngộ giải không tự nhiên sản sanh, cần phải gia tăng tri thức không ngừng, dựa vào sự tiệm tu không ngừng 
5. KIẾN GIẢI VỚI VĂN GIẢI
Trúc Đạo Sanh không đơn giản phủ định tri thức đạt được qua thấy nghe, còn đốn ngộ cũng cần dựa vào tiệm tu 
Ngài phân ra: Kiến giải và Văn giải; Ngộ và Tín; Đốn ngộ và Tiệm tu được kiến lập từ nền tảng, lý bất khả phân ở Bát nhã học và trực chỉ tâm tính ở niết bàn học. 
6. TẠ LINH VẬN – NĂNG CHÍ VỚI NHẤT CỰC
Thuyết Đốn Ngộ của Tạ Linh Vận chủ yếu xiển dương ý nghĩa lý bất khả phân của Trúc Đạo Sanh, có đặc sắc chiết trung Nho Phật:
《廣弘明集》卷18:「釋氏之論。聖道雖遠積學能至。累盡鑒生[22]方應漸悟。孔氏之論。聖道既妙。雖顏殆庶體無鑒周。理歸一極。有新論道士以為。寂鑒微妙不容階級。積學無限何為自絕。今去釋氏之漸悟而取其能至。去孔氏之殆庶而取其一極。一極異漸悟能至非殆庶。故理之所去雖合各取。然其離孔釋矣。余謂二談救物之言。道家之唱得意之說」(CBETA, T52, no. 2103, p. 224, c29-p. 225, a8)
6. TẠ LINH VẬN – NĂNG CHÍ VỚI NHẤT CỰC
Thuyết Thể Vô của nho giáo thực tế là của Vương Bộc thời Ngụy nói về thể vô của Khổng Tử, thuyết Đốn Ngộ Thành Phật là phương pháp thành Phật cực nhanh, ảnh hưởng lớn trong tư tưởng Phật giáo Trung Quốc, đây là lần đầu tiên và người đầu tiên xiển dương học thuyết này.
6. TẠ LINH VẬN – NĂNG CHÍ VỚI NHẤT CỰC
Tiểu sử của Tạ Linh Vận:
Tạ Linh Vận (385-433, tự là Khương Lạc 康樂). Xuất thân từ huyện Trần, Đông Nam tỉnh Hồ Nam, nhưng thừa hưởng một vùng đất tại Thủy Ninh, vùng Cối Kê (會稽), nên ông thườ  ng nói vùng đất nầy như là quê hương mình. Ông làm quan dưới triều Lưu Dự, người lập nên triều Tống năm 420. Lưu Dự và các quan tùy tùng đều thán phục thiên tài văn chương của ông và phần nhiều thất vọng khi vua dùng ông như một nhà thơ tài ba vì ông có tham vọng cao hơn. 
Ông gặp ngài Huệ Viễn lần đầu năm 412 (có lẽ còn sớm hơn). Ở kinh đô, ông thường giao du với những người tân Lão giáo thường tụ tập quanh Thái tử Lô Lăng (ct. 54), nơi ông gặp được Nhan Đình Chi (顔延之) (ghi chú 56) và Huệ Lâm, nhà cải cách Phật giáo (ghi chú 53) 
Về mối quan hệ riêng giữa Tạ Linh Vận và Trúc Đạo Sinh chúng ta không biết được gì nhiều . Năm 422, Tạ Linh Vận phái qua Vĩnh Gia, ở đó ông viết nhiều thư và sau được sưu tập trong Biện Tông Luận 
6. TẠ LINH VẬN – NĂNG CHÍ VỚI NHẤT CỰC
Đến năm 426, quan nhiếp chính bị Văn Đế giết, một hướng mới mở ra cho ông những hấp dẫn mà ông không thể từ chối. Văn Đế rất quan tâm đến tư tưởng đạo Phật và tân Lão giáo; vua nhiều lần gọi ông về triều và đối xử với ông rất tốt, dù Tạ Linh Vận đã nhiều lần tự nhủ với mình rằng đừng nên hy sinh sự tự do cá nhân của mình cho sự ưa thích của một ông vua 
Năm 443, các kẻ thù của ông lại tìm để giết hại ông, ‘thi thể bị ném ra đường’ như đã ghi chép. Tống sử, 67, Tang, History pp. 436-440, 627 ff., 663-666.
7. NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI VIẾT - về nguồn tư tưởng
* kinh Duy Ma Cật sở thuyết
* kinh Đại Bát Niết Bàn
* kinh Thủ Lăng Nghiêm
* Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
* Kinh Hoa Nghiêm 
* kinh Duy Ma Cật sở thuyết
Phật quốc là cõi nước Phật. Nói cách khác là cảnh giới của con người tỉnh thức hoàn toàn và giác ngộ chân lý trọn vẹn…. Cõi nước Phật ở tại tâm người. Con người dứt hết các vô minh phiền não, tâm người sáng suốt giác ngộ chân lý trọn vẹn và sống đúng chân lý thì tâm đó là Phật. Người có tâm Phật ở đâu thì cõi nước đó trở thành cõi nước Phật là Phật quốc.
- Lý bất nhị: Chương chin, Chứng Nhập Pháp Môn Bất Nhị, trang 222: 
Duy ma hỏi Văn Thù về Bất Nhị:
Văn thù đáp: sanh và diệt là hai. Vạn pháp xưa không sanh, nay không diệt tỏ ngộ được pháp thân vô sanh đó, tôi thể nhập Pháp môn bất nhị
….. ngã và ngã sỡ… thọ và bất thọ …. Cấu và tịnh …. Động tâm và niệm tưởng….
Văn Thù: Xin nhân giả cho biết cao kiến của Ngài về phương pháp thể nhập Pháp Môn Không hai của một Bồ Tát?
Ông Duy Ma lúc bấy giờ điềm nhiên an tọa. Đại chúng cả hội trường nín thở trông chờ … Ông Duy Ma vẫn im lặng và im lặng…
Văn Thù: Siêu tuyệt thay! Siêu tuyệt! Pháp Môn Không Hai siêu tuyệt! vắng bặc cả văn tự ngữ ngôn.
* kinh Đại Bát Niết Bàn
Nói về Phật tánh:
Ngã đồng nghĩa với Như Lai Tàng. Như Lai Tàng đồng nghĩa với Phật Tánh. Tất cả chúng sanh đều  có Phật tánh ấy. Do vậy, trong 25 cõi đều có Ngã. Ngã hay Phật Tánh là cái vốn có của chúng sanh trong 25 cõi; vậy mà từ lâu chúng sanh bị vô minh phiền não ngăn che lấp kín nên không nhận biết.
* kinh Đại Bát Niết Bàn
Nói về Bất Nhị 
là Đệ tử Phật, người có trí phải học nghĩa Trung Đạo trong Phật pháp, mới vượt ra phạm trù đối đãi: Hữu – Vô, Thường – Đoạn… nguyên nhân của mọi vướng mắc khổ đau.
* kinh Thủ Lăng Nghiêm
Nói về trạng thái mê và ngộ: Phú Lâu Na! người được đạo Bồ Đề ví như người tỉnh giấc, kể chuyện trong chiêm bao. Tâm ghi nhớ rõ rang nhưng không sao lấy vật trong chiêm bao ra được; huống chỉ cái mê vốn không, không nhân, không gì cả thì tìm sao cho nó có cội nguồn.
* Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Trước khi nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì Phật vì các hang Bồ Tát nói kinh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Có nghĩa là muốn hiểu được kinh Pháp Hoa thì trước hết phải chuẫn bị vô lượng nghĩa; điều này đồng nhất với muốn liễu ngộ được Phật tánh thì phải vượt qua được lý Bất Nhị, vượt ngoài ngôn ngữ, mà là thật tướng các pháp. Chỉ có tâm Phật mới hiểu nổi mà thôi. 
* Kinh Hoa Nghiêm 
có bài kệ: 
Nhược nhơn dục liễu tri, 
Tam thế nhất thiết Phật
Ứng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.
7. NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI VIẾT - về nguồn tư tưởng
Tư tưởng đốn ngộ thành Phật đã có tư tưởng từ thời Phật. Trúc Đạo Sanh là người hệ thống lại và cho ra một từ ngữ mới, ứng hợp với đất nước mình, với tư tưởng của người dân
III. KẾT LUẬN
Đốn ngộ thành Phật, thành tựu Phật tánh một cách nhanh chóng, không qua thứ lớp, mà tức thì viên mãn thể tánh của Phật.
Mọi người đều có thể học, thực hành theo hạnh của Phật, và có khả năng thành phật. bởi vì “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”.
NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT MA HA TÁT
TỔ 4 XIN HOÀN THÀNH BÀI THUYẾT TRÌNH TẠI ĐÂY

KÍNH CHÚC TOÀN THỂ VÔ LƯỢNG AN LẠC - VÔ LƯỢNG KIẾT TƯỜNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét