Chương
I: DẪN NHẬP
Chương II: NỘI DUNG
I.
HỌ KHÚC
1.
TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ CỦA TRUNG QUỐC
2.
HỌ KHÚC GIÀNH ĐỘC LẬP VÀ TỰ CHỦ
3.
NHỮNG ĐỐNG GÓP CỦA HỌ KHÚC CHO DÂN TỘC
4.
GÓC NHÌN NHẬN
II.
DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ ĐUỔI QUÂN NAM
HÁN
III. NGÔ QUYỀN
1.TRẬN CHIẾN BẠCH ĐẰNG
2. NGÔ VƯƠNG
3. GÓC NHÌN NHẬN
IV. ĐINH BỘ LĨNH
1. DẸP LOẠN MƯỜI HAI XỨ QUÂN
2. TRIỀU ĐÌNH VÀ XÃ HỘI THỜI ĐINH
3.
GÓC NHÌN NHẬN
V. NHÀ TIỀN LÊ
1. VIỆC CHỐNG ĐỞ TRIỀU ĐÌNH CỦA LÊ
HOÀN
a.
KHỦNG HOẢNG CHÍNH TRỊ TRIỀU ĐÌNH NHÀ ĐINH
b.
ĐÁNH TỐNG – DẸP CHIÊM
c. LÊ HOÀN LÊN
NGÔI VÀ CHỈ ĐẠO CUỘC CHIẾN CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC.
2. VÀI NÉT VỀ ĐẤT NƯỚC DƯỚI THỜI
TIỀN LÊ
3. NHÀ LÊ SUY VONG
4. GÓC NHÌN NHẬN
Chương IV: KẾT LUẬN
Chương
I: DẪN NHẬP
Nhân dân ta là một dân tộc kiêng
cường, và đầy tinh thần đoàn kết dân tộc. Luôn bảo vệ nền độc lập tự chủ và
cương quyết đấu tranh sinh tồn cho nền Văn hóa Việt mà từ ngàn xưa cha ông đã
công lao gầy dựng nên. Thuở xưa, vua Hùng gian lao dựng nước và đấu tranh với
thiên nhiên cho sự sinh tồn của dân tộc, qua việc Thánh Giống, Sơn Tinh – Thủy
Tinh… Rồi đến An Dương Vương bảo vệ nước. nhưng lại bị quân xâm lăng phương bắc
chiếm đoạt, thật đâu khổ cho dân tộc ta dưới ách áp bức của chúng.
Hơn 1000 năm
Bắc thuộc với sự cai trị khắc nghiệt, bị bóc lột nặng nề và chính sách đồng hóa
thâm độc, người Hán tưởng rằng có thể khuất phục dân tộc ta, nhưng với truyền
thống văn hóa dựng nước và giữ nước được tạo dựng từ thời Hùng vương, nhân dân
ta đã liên tục đứng lên khởi nghĩa không mệt mõi, điển hình như: Khởi nghĩa hai
Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống xâm lược Hán (40-43), tại Mê Linh (vùng Ba
Vì, Tam Đảo ngày nay). Khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248) chống quân Đông Ngô, tại
Thanh Hóa. Khởi nghĩa Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân (542-544), chống quân Lương,
lập nên triều Lý, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Khởi nghĩa Lý Tự Tiên, Đinh Kiên
(năm 687) chống quân Đường, tại vùng núi Giao Châu (miền Bắc Việt Nam ). Khởi
nghĩa Mai Thúc Loan (năm 722) chống quân Đường; xưng đế, xây thành Vạn An
(thuộc Nghệ An ngày nay). Khởi nghĩa Phùng Hưng, tức Bố Cái Đại Vương (767-
791) chống quân Đường, giành lại Đường Lâm, Tống Bình (Hà Nội) thiết lập quyền
tự chủ toàn bờ cõi. Khởi nghĩa Dương Thanh (819 – 820) chống quân Đường. Những cuộc
đấu tranh này đã xuất phát từ ước vọng, niềm tự hào đất nước của dân tộc Việt chúng
ta.
Và Lịch sử
đã Khẳng định rõ hơn về kỷ nguyên nền độc lập, tự chủ đất nước vào khoảng 905 –
1009, đó là cuộc đâu tranh từng bước khôn khéo đặt nền móng cho tự chủ và độc
lập dân ta. Sau đây người viết sẽ nêu lại lịch sử thời này và có vài nhận xét trong
bối cảnh đó. Với mong muốn là giúp khơi lại công lao khổ cực của cha ông trong
thời kỳ dựng nước mà hiện tại mỗi người chúng ta có tinh thần và trách nhiệm ở
vận mệnh đất nước ngày nay.
Với một
thời lượng có hạn, người viết chỉ nêu lại sơ lược những then chốt quan trọng
trong các thời đại đó thôi. Bởi tính lịch sử thì rất nhiều trong các tài liệu
như là: TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ KHỞI NGUYÊN ĐẾN THẾ KỶ XIX của Nguyễn
Khắc Thuần, KHĂM ĐỊNH VIỆT SỬ
THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ…Dựa vào đây, người viết nêu lên
những suy nghỉ của riêng mình, đồng thời cũng là gợi ý một chút cho tương lai.
Đã là
người con nước Việt thì ai cũng phải biết nguồn gốc đất nước quê hương, tổ tiên
ông bà khổ công gầy dựng nên cơ đồ cho hậu thế, qua đó chúng ta cần hiểu và có
trách nhiệm với những điều ta có.
Chương II: NỘI DUNG
I. HỌ KHÚC
1. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ CỦA TRUNG
QUỐC
Từ cuối nhà thế kỷ IX trở đi, triều đình nhà Đường thãm hại và tan
rã nhanh chống, vua thì kém tài trị nước, quan lại tranh nhau nắm giữ quyền
hành và lãnh thổ. Chính trị suy đồi, triều đình thối nát, làm tình cảnh dân
chúng càng thêm khổ sở hơn. Từ đó mà các cuộc khởi nghĩa luôn nổi dậy, điển
hình là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào lãnh đạo, có lúc Hoàng đế phải bỏ chạy
khắp nơi.
Đến đời Đường Ai Đế phải bị Chu Toàn Trung bắt nhường ngôi. Nhà Đường 21
đời, đến đây đã dứt. Tuy có thay đổi chính trị nhưng Trung Quốc vẫn khủng hoảng
cả chính trị lẫn kinh tế. Nhân dân điêu đốn Đất nước lâm vào thời loạn lạc, đó
là thời Ngũ Đại Thập Quốc
Thế địch suy yếu, đất nước loạn lạc, nhân dân rã rời mất niềm tin, không
trật tự, không có sự đoàn kết trong nội
bộ chính quyền. Chính điều này rất có lợi cho việc đấu tranh giành độc lập cho
dân ta.
2. HỌ KHÚC GIÀNH ĐỘC LẬP VÀ TỰ CHỦ
Tuy vũ trường chính trị có thay đổi nhưng tình hình khủng hoảng cũng
không thuyên giam. Khi nhà Đường mất, Nhà Hậu Lương lên thay và rời và thời Ngũ
đại Thập quốc. Nước ta gần như bị bỏ quên, một tình thế thuận lợi chư từng có
nay đã hiện. Khúc Thừa Dụ là người nhạy bén, chóp được tình hình và tập hợp lực
lượng để đấu tranh giành chính quyền nhanh chống thành công.
Để tránh chiến tranh và cũng cố lực lượng nên Khúc Thừa Dụ lên ngôi mà
vẫn tự xưng mình là Tiết Độ Sứ “vốn tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng
suy tôn, gặp thời loạn lạc, nhân danh là hào trưởn một xứ, Thừa Dụ tự xưng là
Tiết Độ Sứ”[1].
Họ Khúc nối truyền nhau 3 đời:
Khúc Thừa Dụ (905 – 907)
Khúc Hạo (907 – 917)
Khúc Thừa Mĩ (917 – 930)
Nhưng đến Khúc Thừa Mĩ do không được khôn khéo như ông và cha. Năm 930, Nam Hán cho
quân tràng sang Khúc Thừa Mĩ nhanh chóng thất bại. nước ta lại bị đô hộ tiếp
3. NHỮNG ĐỐNG GÓP CỦA HỌ KHÚC CHO
DÂN TỘC
Đối với Khúc Thừa Dụ: xây dựng chính quyền của dân tộc, không còn ách
thống trị, tạo cho người dân có cuộc sống của chủ quyền, của độc lập, thái
bình, an tâm chăm lo cuộc sống.
Khúc Hạo: “bình quân thế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ tịch để kê rõ
họ tên, quê quán, để giao cho Giáp Trưởng trông coi, chính sự cốt chuộng khoan
dung giản dị, nhân dân đều được an vui”[2]. Thay
đổi hệ thống hành chính mới từ trên xuống có: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã
có một chức Chính Lệnh Trưởng và một chức Tá Lệnh Trưởng. Giáp là đơn vị hành
chính chung của các xã nằm liền nhau. Căn cứ vào hệ thống này mà đặc thuế khóa.
4. GÓC NHÌN NHẬN
Từ việc cải cách hành chành và chế độ thuế khóa, người viết nhận xét như
sao:
Tam thời chấp nhận trên danh nghĩa phụ thuộc vào Trung Quốc thời ấy. Đây
để đảm bảo cho mục tiêu cao nhất vì chính quyền độc lập còn non trẻ của dân
tộc.
Việc quy định thuế khóa “khoan dung giản dị”, thể hiện tinh thần thương
dân, muốn cho đất nước phát triển kinh tế, và cuộc sống người dân được nâng cao
hơn.
Thay đổi hệ thống hành chính củ và thiết lập hệ thống hành chính mới, tỏ
rõ hệ thống nhà nước này là một nhà nước độc lập, chủ quyền, và đủ thẩm quyền
quyết định cho dân tộc nơi đây
Tuy nắm giữ vũ đài chính trị không lâu, chưa có thay đổi gì lớn trong cải
cách chính trị, văn hóa, kinh tế…nhưng thực sự những đống góp của họ Khúc rất
xứng đáng được ghi nhận. Từ họ Khúc này chúng ta thấy được bóng dáng của độc
lập, chủ quyền – tuy chưa có quốc hiệu và niên hiệu, chưa xưng Đế hoặc xưng
Vương thậm chí còn tự coi mình là quan lại Trung Quốc. Nhưng thực sự họ Khúc đã
có công đặt nền tảng kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất nước nhà.
II. DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ ĐUỔI QUÂN NAM HÁN
Nhằm giảm bớt đi căng thẳng và ổn định lòng dân, Nam Hán cho Dương Đình
Nghệ[3] làm
Thứ Sử Ái Châu. Đầu năm 931 ông bất ngờ tấn công thành Tống Bình và đã chiếm
giữ được thành. Sau chiến thắng ông tự xưng là Tiết Độ Sứ và cho các tướng trấn
giữ những vùng hiểm yếu:
Đinh Công Trứ (thân sinh Đinh Bộ Lĩnh) làm Thứ Sử Châu Hoan
Ngô Mân (thân sinh Ngô Quyền) làm Thứ Sử Ái Châu …
Nhưng đến tháng 3 – 937 Dương Đình Nghệ bị con nuôi là Kiều Câu Tiễn giết
cướp ngôi tự xưng là Tiết Đô Sứ. Đất nước lại lâm vào tình trạng khủng hoảng
chính trị mới.
Biết được tội ác của Kiều Câu Tiễn, Ngô Quyền đã đem quân hỏi tội Câu
Tiễn. Câu Tiễn đã chạy cầu quân Nam Hán, vua Nam Hán đã gắp rút chuẩn bị lực
lượng để tấn công. Làm cho nước ta phải lâm vào cảnh bị đe dọa mất nước.
GÓC NHÌN NHẬN
Tuy vẫn còn tự xưng là Tiết Đô Sứ, chưa có tên nước rõ ràng, niên
hiệu…nhưng một lần nữa đã thể hiện được thế chủ quyền độc lập, và khẳng định
tính dân tộc bảo vệ bờ cõi đất nước.
Kiều Câu Tiễn là một đứa đối với chủ là bất trung, đối với dưỡng phụ là
đứa bất hiếu, đối với đất nước là kẻ bán nước nhục nhã không thể tả, đem dân mà
đổi lấy mạng sống cho riêng mình. Làm người sau câm phẫn khi nhắc đến tên, đúng
là:
“trăm năm bia đá cũng
mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn
còn trơ trơ”
III. NGÔ QUYỀN
Ngô Quyền ngời làng Đường Lâm (Phúc Thọ, Hà Tây). Cha là Ngô Mân – Thứ Sử
Ái Châu dưới thời Dương Đình Nghệ nên ông theo cha vào ở Ái Châu ngay từ thuở
nhỏ, Ngài có khí sắc tốt, và có trí dũng, làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ.
Dương Đình Nghệ rất thương ông nên bèn gã con gái – cho làm quyền quận Ái Châu.
1.TRẬN CHIẾN BẠCH ĐẰNG
Nhà Nam Hán sai Hoằng Thao đem quân sang sâm lược nước ta bằng bờ biển
Đông Bắc vào sông Bạch Đằng và tiến sâu vào lãnh thổ nước ta để tấn công Ngô
Quyền. Thế địch rất mạnh và đầy lòng tham để xâm lược nước ta, nhưng quân ta
thì yếu. Đất nước lại đứng trước một kho khăn lớn. Muốn làm tan ý chí xăm lược
của quân Nam Hán thì chỉ có khi nào đánh tan được đội quân xâm lăng này. Cho
nên trận chiến này là một trận quyết chiến chiến lược quyết thắng.
Quân Nam Hán ồ ạc đổ vào nước ta, khi chưa đến ta thì Kiều Câu Tiễn đã bị
Ngô Quyền giết. Còn Hoằng Thao thì ông nhận xét với các quân, như sau: “Hoằng
Thao bất quá chỉ là một đứa trẻ dại, từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe
được tin Kiều Công Tiễn đã chết, không còn người nội ứng nên trước đã mất vía
rồi. quân ta đang mạnh, đối địch với quân mỏi mệt thì tất phải được. Song, họ
có lọi ở chiến thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa
thể biết. Nếu ta sai người đem cọc lớn, vót nhọn đầu mà bịt sắt, đóng ngầm ở
cửa biển trước, thuyền của họ nhân khi nươc triều lên, tiens vào bên trong hàng
cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự không cho chiến nào thoát”.
Ý kiến ông nhánh chống trở thành chiến lược và cũng theo dự đoán là quân
giặc đã bị tiêu diệt gần hết. Thừa thắng ông đã đuổi theo đánh và khi bắt được
Hoằng Tháo liền đem giết. Vua Hán thương khóc đành rút đám tàn quân về. Bở cỏi
nước ta được bảo vệ an toàn và khẳng định thế độc lập của nước ta.
2. NGÔ VƯƠNG
Năm 939, sau thắng lợi vang dội của trận quyết chiến ở trận Bạch Đằng
lịch sử, Ngô Quyền lên ngôi Vương, chọn thành Cổ Loa làm kinh đô. Tại đây, Ngô
quyền đã xây dựng cả một triều đình riêng với đầy đủ các ban văn võ và lễ nghi.
Ngô Quyền nắm giữ 8 châu trong 12 châu: Giao Châu, Phong Châu, Trường
Châu, Lục Châu, Ái Châu, Phúc Lộc Châu, Diễn Châu và Hoan Châu. Bốn châu còn
lại là bị kẹt bên trung quốc cho đến ngày nay: Thang Châu, Chi Châu, Vũ Nga
Châu và Vũ An Châu.
Năm 944, Ngô Quyền mất, hưởng dương 46 tuổi. ngôi của họ Ngô bị em vợ là
Dương Tam Kha cướp ngôi. Đất nước lại lâm vào tình trạng khủng hoãng chính trị
và chính vì việc này mà có cuộc nổi loại của 12 xứ quân
3. GÓC NHÌN NHẬN
Giết Kiều Câu Tiễn là trước trả thù cho cha vợ, và báo đền ơn chủ nhà họ
Dương, diệt trừ kẽ nội gian bán nước cầu vinh.
Chúng ta vẫn không có tư liệu gì nhiều tài liệu về bộ mấy hành chính do
Ngô Quyền cài đặt trong 8 châu của ông trực tiếp quản lí, chỉ biết là triều
đình trung ương chưa cao, vì thế chẳng bao lâu sau khi Ngô Quyền mất, dẫn đến
loạn 12 sứ quân.
Trận thắng Bạch Đằng là thể hiện lên khi thế tinh thần dân tộc, lòng bảo
vệ bờ cõi đất nước và bảo vệ sự độc lập tự chủ của dân ta. Từ trận thắng này về
sau cũng có một trận tai Bạch Đằng do Trần Hưng Đạo chỉ huy mà dân tộc ta luôn
tự hào. Cũng có thể nói trận thắng Điện Biên Phủ của Cách Mạng Tháng Tám là
trận Bạch Đằng thứ ba trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Vì cả ba trận đều
là lấy lòng yêu nước, lòng dân mà thắng kẻ mạnh mà bao nước khác phải thua
chúng.
Bãng nhãn Lê Văn Hựu (1230 – 1322) đánh giá: “Tiền Ngô Vương lấy quân mới
họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăn vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước
xưng vương, khiến cho người phương bắc không dám sang nữa. có thể nói một lần
nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ mới xưng
Vương chứ chưa lên ngôi Đế và chưa đặt niên hiệu, nhưng chính thống của nước
Việt ta kể như đã nối lại được rồi”[4].
Theo tiến sĩ Ngô Sĩ Liên nói: “Tiền Ngô Vương không chỉ là người chiến
thắng mà còn có công cắt đặt trăm quan, chế định ra triều nghi và phẩm phục, tỏ
cho thấy cách thức của bậc Đế Vương”[5].
IV. ĐINH BỘ LĨNH
1. DẸP LOẠN MƯỜI HAI XỨ QUÂN
Đinh Bộ Lĩnh là con trai của Đinh Công Trứ. Dưới thời Ngô Quyền, Đinh
Công Trứ ( nguyên là Nha Tướng của Dương Đình Nghệ) được phong tới chức Ngự
Phiên Đô Đốc, quyền Thứ Sử Hoan Châu. Khi Đinh Công Trứ qua đời, Đinh Bộ Lĩnh
còn nhỏ nên theo mẹ về Hoa Lư. Ngay từ thuở nhỏ ông đã tỏ ra là người có tư
chất thông minh, giàu tài năng nên được dân trong vùng cảm phục, có tích lập
trận cờ lau mà vẫn còn lưu tới ngay nay.
Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh đã là một trong những tướng lớn ở Hoa Lư, đối
nghịch với chú ruột là Đinh Dự. Khi cục diện 12 sứ quân xuất hiện Đinh Bộ Lĩnh
đem quân đầu Trần Lãm, nơi đây thế lực Trần Lãm càng thêm lớn mạnh – sau Trần
Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh lên thống lĩnh toàn lực lượng và ông đã liên tiếp đập tan
sứ quân này đến sứ quân khác, đến năm 967 thì đã dẹp toàn bộ 12 sứ quân thống
nhất đất nước, nối lại thời bình cho nhân dân.
2. TRIỀU ĐÌNH VÀ XÃ HỘI THỜI ĐINH
Năm 968, sau khi dẹp loạn 12 xứ quân xong, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng
Đế. Như vậy, từ đầu là nhà họ Khúc tuy tự trị nhưng tên vẫn còn lệ thuộc vào
Trung Quốc, đến họ Dương thì chỉ xưng là Vương thôi, đến đây là Hoàng Đế đầu
tiên của nước ta và đã đặt tên nước là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư làm kinh đô.
Từ nay triều đinh tập quyền đã được thành lập, ông định nghi lễ cho triều
đình. Năm 971, ông định thứ bậc cho các cấp, đến 975 chế phục cho các quan. Hai
năm sau khi lên ngôi, Đinh Bộ Lĩnh đã bỏ tên niên hiệu trực thuộc của Trung
Quốc và đặc niên hiệu cho triều đình của mình là Thái Bình.
Về quân sự thành lập đội quân thường trực với số lượng khá đông, cả nước
được chia làm 10 đạo quân. Việc tuyển quân được chia đều các đạo. Theo Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết như sau:
Cả nước gồm 10 Đạo, mỗi Đạo có 10 Quân, mỗi Quân có 10 Lữ, mỗi Lữ có 10
Tốt, mỗi Tốt có 10 Ngũ, mỗi Ngũ có 10 Người. Đây là con số ước lượng, tuy chưa
phải là con số chính xác nhưng chúng ta cũng hình dung được một phần nào về đội
quân này.
Về mặt tổng thể, Đinh Tiên Hoàng đã quản lí được toàn bộ dân cư và lãnh
thổ. Các làng xã chia ruộng công theo định kì và định suất cho nông dân cày
cấy. Bấy giờ ruộng tư cũng xuất hiện. Về mặt kinh tế thủ công nghiệp, một số
ngành cổ truyền đã được phục hồi và cũng có một số ngành mới ra đời, như: ngành
thuộc da. Về văn hóa, Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo được duy trì và phát
triển, mạnh nhất là Phật giáo được xem như là một quốc giáo của nước ta. Triều
đình quy định rõ thứ bậc cho chư tăng và nhà sư được đề cao trong xã hội, như:
sư Ngô Chân Lưu giữ chức tăng thống hiệu là Khuông Việt Đại Sư tham dự triều
chính ngan quyền như một Tể tướng…
Về mặt ngoại giao, quân Tống tấn công vào Nam Hán. Biên giới mạn bắc nước
nhà bất ổn, triều đình nhà Tống chưa thật vững mạnh, Đinh Tiên Hoàng sai con
trưởng là Đinh Liễn mang cống phẩm và đặt quan hệ bang giao hữu hão với nhà
Tống. Nước Tống phải ổn định tinh hình trong nước, không có khả năng đánh nước
ta, vì vậy mà phái bộ Đinh Liễn được đón tiếp tử tể. Sau đó vua Tống phong Đinh
Bộ Lĩnh là Giao Chỉ Quận Vương, Đinh Liễn là Kiểm Hiệu Thái Sư Tĩnh Hải Tiết Độ
Sứ, An Nam Đô Hộ. Tuy trên danh nghĩa nước ta là thuộc quốc của nhà Tống nhưng
thực chất, nước Đại Cồ Việt là một nước độc lập.
3. GÓC NHÌN NHẬN
Dẹp loạn 12 xứ quân thống nhất đất nước làm củng cố nền độc lập cho đất
nước, tránh tình trạng chia rẽ trong dân tộc.
Đến đây nước ta đã có quốc hiệu, có Hoàng đế, có niên hiệu và có một
triều đình độc lập, một nước độc lập.
Xã hội bắt đầu được khởi sắc, chú ý đến các ngành kinh tế của nhân dân,
và tầng lớp trí thức trong quần chúng.
V. NHÀ TIỀN LÊ
1. VIỆC CHỐNG ĐỞ TRIỀU ĐÌNH CỦA LÊ
HOÀN
a. KHỦNG HOẢNG CHÍNH TRỊ TRIỀU ĐÌNH
NHÀ ĐINH
Đinh Tiên Hoàng lên ngôi không bao lâu lại ham mê dục lạc và xa rời chính
sự, làm uy tín ông đối với triều thần bị giảm dần. năm 978, lập Hạng Lang làm
Thái Tử, sự việc này đã gây bất bình với Đinh Liễn. Năm 979, Đinh Liễn sai
người giết Hạng Lang để đạt ngôi Thái Tử cho mình, cuộc chém giết trong nhà
Đinh bắt đầu, ngôi Thái Tử bỏ trống.
Tháng 10 – 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị Phúc Hầu Hoành là Đỗ
Thích giết chết. Đỗ Thích bị Định Quốc Công Nguyễn Bặc chém đầu, họ Đinh xuống
dóc. Triều thần, đứng đầu là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lê Hoàn… cùng tôn Đinh Toàn
mới 6 tuổi lên làm vua. Vì vua quá nhỏ nên Lê Hoàn nắm quyền nhiếp chính, xưng
là Phó Vương. Đến đây, Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp cho rằng Lê Hoàn có ý
cướp ngôi nên cử binh đánh, cả ba đều bị Lê Hoàn bắt giết. Cuộc xung đột nội bộ
chấm dứt, nhưng quân Chiêm Thành lại nổi lên.
b. ĐÁNH TỐNG – DẸP CHIÊM
Lê Hoàn lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước biến loạn cả trong
lẫn ngoài. Ngay từ khi ông giành quyền nhiếp chính, các đại thần thân cận của Đinh Tiên
Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc,
Trịnh Tú,
Lưu Cơ
cùng tướng Phạm Hạp
nổi dậy chống lại nhưng đều nhanh chóng bị đánh dẹp. Phò mã Ngô Nhật
Khánh bỏ trốn vào nam, cùng vua Chiêm Thành
với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết. Thấy triều đình Hoa
Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt. Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga
cùng tướng Phạm Cự Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua.
Khi người Việt chìm dưới ách nô dịch của phong kiến phía
Bắc thì ở phía Nam, người Chiêm Thành đã sớm xây dựng được quốc gia độc lập tự
chủ. Sinh sống ở các thung lũng Nam Trung Bộ hẹp và nhỏ, vương quốc Chiêm Thành
có thế mạnh về hàng hải và các ngành nghề thủ công, nhưng lại thiếu những miền
châu thổ rộng lớn. Bởi vậy, từ khi lập nước, Chiêm Thành liên tục tiến hành các
hoạt động quân sự với Đại Cồ Việt. [6]
Năm 803, vua Chiêm sai viên tướng Senapati Par đem quân xâm phạm nước ta, vây hãm phía
nam quận Cửu Chân.
Năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Canh và Từ Mục đi sứ Chiêm
Thành bị vua Chiêm bắt giữ. Lê Hoàn tức giận, “sai đóng chiến thuyền, sửa binh
khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Bắt
sống được quân sĩ nhiều vô kể, cùng với trăm người kỹ nữ trong cung, lấy các đồ
quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì, phá hủy
tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư”[6].
Các nghiên cứu thống kê cho thấy, trong vòng 26 năm trị vì, Lê Hoàn là người
đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía nam, đã tiến hành 6 hoạt động quân sự lớn ở
đây trong số 10 hoạt động quân sự lớn suốt thời gian trị vì của ông, vua đích
thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các thế lực cát cứ và xâm lấn, không chỉ
bảo vệ vững chắc miền biên giới, mà còn trực tiếp chuẩn bị cho quá trình Nam
tiến của người Việt, mở rộng thêm cương giới lãnh thổ của quốc gia Đại Việt sau
này. Điều đó cũng lý giải vì sao Hoa Lư tiếp tục là đế đô dưới triều đại Tiền
Lê.
Quân Tống xâm lược nước ta
Xét thấy
nước ta rối loạn, không có cơ hội nào hơn. Và qua nhiều lần đi sứ thăm dò tình
hình tỉ mỉ cục diện triều đình nhà Đinh. Chỉ mấy tháng sau khi Đinh Tiên Hoàng
băng hà, Thái Thường Bác Sĩ là Hầu Nhân Bảo làm quan ở Châu Ung dâng thư cho
Hoàng Đế nhà Tống, nói rằng: “An Nam Quận Vương và con là Liễn đã bị giết. nước
nó suy biến, có thể nhân lúc này cử binh mà chiếm lấy. Nếu như bây giờ không
tính lấy, sợ mất cơ hội tốt. xin cho tôi về cừa khuyết để trình bày tình trạng
có thể lấy được”[7].
Tuy không được tham dự triều chính, nhưng qua sớ tấu này, Hầu Nhân Bảo
được vua Tống cho thống lĩnh quân đi xâm lược nước ta và có nhiều quan lai cấp
cao của triều đình nhà Tống đi theo.
Chúng kéo vào nước ta bằng 2 con đường:
- Bộ binh, men theo ải Chi Lăng tràng vào nước ta do Hầu Nhân Bảo, Tôn
Toàn Hưng và Trần Khâm Tộ chỉ huy.
- Thủy binh, men theo Vịnh Bắc Bộ rồi vào cửa Bạch Đằng, chỉ huy là Lưu
Trừng và Giả Thực cầm đầu.
c. LÊ HOÀN LÊN
NGÔI VÀ CHỈ ĐẠO CUỘC CHIẾN CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC.
Những cuộc xung đột nội bộ triều đình đã được Lê Hoàn giải quyết. Nhưng
đất nước lại đang đứng trước tình hình ngoại xâm đe dọa. Thì vị thống soái
không có: Thái Hậu Dương Văn Nga không đủ mưu trí, Hoàng Đế Đinh Toàn mới 6
tuổi. Triều đình đang đứng trước một khó khăn lớn, duy chỉ có Thập Đạo Tướng
Quân Lê Hoàn mới có thể lãnh đạo, Phạm Cự Lượng nói: “ Thưởng người có công,
giết kẻ không vâng mệnh, ấy là phép sáng tỏ của việc dùng binh, nay Chúa Thượng
ấu thơ, lũ chúng ta tuy hết sức liều chết chống bọn ngoại xâm, may mà có chút
công lao thì ai biết đến cho. Chi bằng trước hết hãy tôn quan Thập Đạo Tướng
Quân lên làm Thiên Tử rồi sau hãy phát binh”.
Đứng trước tình hình khó khăn này, Thái Hậu Dương Văn Nga đã đắng đo kỉ
và quyết định tôn Lê Hoàn lên lãnh đạo. Năm 980, Thái Hậu Dương Văn Nga trịnh
trọng khoát tấm long cổn cho Lê Hoàn. Một triều đại hoàn toàn mới được thành
lập.
Vua Lê Hoàn đã áp dụng lại sáng tạo của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng
bằng cộc nhọn bịt sắt đó là đường thủy. Trên đường bộ cho bố trí quân các điểm
hiểm yếu nhất. Quyết tâm chung của Lê Hoàn là đập tan ý chí xâm lược của quân
Tống.
Đúng như dự định, vào cuối năm 980, quân Tống tràn vào nước ta cả hai đường
thủy và bộ. Đầu năm 981, các trận đánh lẻ tẻ mà ác liệt đã xảy ra dọc biên giới
phía bắc. Tháng 3 – 981, cánh quân thủy của giặc bị đánh tơi bời và phải chị
đại bại thảm hại ở Bạch Đằng, kết hoạch gọng kìm của giặc bị bẽ gãy.
Bộ binh Tống vừa men theo ngả Chi Lăng đến sông Thương đã bị quân mai
phục của ta bất ngờ tấn công, Hầu Nhân Bảo bị chém đầu tại trận. Nhiều tướng
lĩnh cao cấp khác cũng bị giết, quân Tống chết hơn phân nữa, số còn lại phải
tháo chạy về nước.
Sự thất bại của quân Tống, làm cho Hoàng Đế nhà Tống căm giận trút trách
nhiệm cho tướng bại trận: Tôn Toàn Hưng bị chém ở chợ Ung Châu; nhiều tướng
khác bị giam đến chết trong ngục.
Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất thắng lợi, Dương
Vân Nga lại trở thành hoàng hậu của Lê Hoàn. Vua Lê Đại Hành
tiếp tục cho mở mang, xây dựng thêm nhiều cung điện lộng lẫy ở Hoa Lư. Ông vẫn chọn
Hoa Lư làm kinh đô do vị trí nằm ở trung tâm đất nước thời bấy giờ (giữa ngã ba
khu vực Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ)
để phục vụ mục tiêu mở mang bờ cõi xuống phương nam sau này.
Đến đây sự nghiệp chống Nam Chiêm Bắc Tống của nước ta được thắng lợi
hoàn toàn.
2. VÀI NÉT VỀ ĐẤT NƯỚC DƯỚI THỜI TIỀN
LÊ
Triều đình nhà Tiền Lê vẫn đặt ở kinh đô Hoa Lư. Tại đây vua Lê Hoàn đã
cho xây nhiều cung mới. Và tổ chức chính trị chặc chẽ hơn, có nhiều điểm mới
hơn như có thêm chức Thái Sư, Tổng Quản, Thái Úy…Chế độ phân phong được mở
rộng. Giữ nguyên tước cho Vê Vương, phong tước cho một số công thần và cho các
con. Cấp hành chính gồm có: Lộ, Phủ và Châu
Về quân đội có 2 bộ phận: Thiên tử quân là quân phục vụ cho triều đình
vua và Vương Hầu quân là quân đội của các bậc Vương tước và Hầu tước. Thiên tử
Quân thường trực có trên 3000 người, trên trán có khắc chữ Thiên tử quân có cả
thủy binh và bộ binh, thủy binh được trang bị chiến thuyền và có cả chiến
thuyền đi trên biển. Vương Hầu quân do các Vương và Hầu tự tuyển chọn, số lượng
và trang bị không đồng.
Về quan hệ ngoại giao
Phía nam quan hệ Việt – Chiêm đã căng thẳng lại căng thẳng hơn khi Ngô
Nhật Khánh cầu viện và vua Bề - mi – thuế tấn công nước ta năm 979. Năm 980, Lê
Hoàn chủ động sai sứ sang giao hảo, như Bề - mi – thuế lại bắt sứ ta. Đến năm
982, sau khi thắng quân Tống, Lê Hoàn cho quân đánh Chiêm Thành, Bề - mi – thuế
bị giết. Cục diện trở nên căng thăng hơn, và Chiêm lúc nào cũng muốn trả thù,
tuy không đủ sức đánh nhưng lại luôn gây loạn ở biên giới.
Phía Bắc quan hệ Việt – Tống, sau trận đại thắng 981, Lê Hoàn thực hiện
chính sách ngoại giao vừa mềm dẻo vừa kiên quyết. Do nội bộ triều đình nhà Tống
chưa ổn định, nên luôn cố gắn giữ gìn mối quan hệ thân thiện. Nhà Tống còn tấn
phong cho Lê Hoàn những tước vị ngày càng cao( năm 986 – 997, Tống hai lần sai
sứ sang nước ta phong tước cho Lê Hoàn, cung làm ngơ khi Lê Hoàn tiếp đón không
đúng nghi lễ đối với sứ giả của Tống). Khi Lê Long Đĩnh lên ngôi Tống cũng sai
sứ sang tấn phong như thường lệ. Nhờ vậy mà ta có được một thời gian bình yên
cũng cố, xây dựng đất nước. Đó là điều kiện để phát triển kinh tế văn hóa thời
Tiền Lê.
Về kinh tế, Nông nghiệp được chú trọng. Hoàng Đế là sở hữu tối cao ruộng
đất trong cả nước. Lê Hoàn đích thân cầm cài trong lễ tịch điền vào năm 987 đã
cổ vũ nghề nông lúc giờ về sau trở thành nghi lễ rất quan trọng. Khi đó, nhiều
kênh ngòi được khai đào và sữa chữa; nhờ vậy mà nông nghiệp phát triển mạnh,
đời sống của nhân dan có phần dễ chịu hơn. Song song bên phát triển nông nghiệp
thì thủ công nghiệp và một số hoạt động kinh tế khác cũng có phần được mở mạng.
Các tuyến giao thông thủy bộ được chú ý sữa chữa và xây dựng khai phá mới.
Về văn hóa, Hoàng Đế tin dùng và tôn trọng tầng lớp trí thức xã hội. Vào
thời này có 3 đạo ảnh hưởng mạnh ở nước ta như: Phật, Nho, Lão; trong đó đạo
Phật được xem là quốc giáo; các đạo sĩ của tạo được uy tín lơn nên triều đình
cũng trọng vọng. Như thế, nhiều chùa chiền, đền miếu được xây dựng nên
3. NHÀ LÊ SUY VONG
Ngai khi Lê Hoàn
băng hà, các con ông chém giết lẫn nhau giành ngôi báu. Sách Dã sử chép
rằng: Đại Hành băng, Trung Tông vâng di chiếu nối ngôi. Long Đĩnh làm loạn,
Trung tông vì anh em cùng mẹ không nỡ giết, tha cho. Sau Long Đĩnh sai bọn trộm
cướp đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông.
Lê Long Đĩnh trong 4 năm cầm quyền thì 5 lần cầm quân
đánh dẹp: dẹp tan tranh giành giữa các anh em trong hoàng tộc để thu phục mọi
người; sang Ái Châu để đánh giặc Cử
Long; đánh người Man ở hai châu Đô Lương và Vị Long; đánh giặc ở Hoan châu,
châu Thiên Liêu và đánh giặc ở các châu Hoan Đường và Thạch Hà.
Tuy nhiên cái chết ở tuổi 24 này dẫn đến sự chấm dứt
triều đại Tiền Lê, quyền lực rơi vào tay nhà Lý.
4. GÓC NHÌN NHẬN
Việc Thái Hậu Dương Văn Nga khoát áo long cổn cho Lê Hoàn đúng thời là
một quyết định sáng suốt. Giúp tăng ý chí chiến đấu bảo vệ nước của toàn quân,
giúp đất nước có một minh quân chỉ đạo cuộc chiến chống quân xâm lược. Tạo cơ
hội cho đất nước chuyển mình và không phải bị gót giầy dầy xéo của giặc ngoại
xâm.
Lê Hoàn khi lên ngôi đã làm hết sức mình cho cuộc chiến bảo vệ đất nước. Dẫu
quân Tống đông và trang bị kiến thức lẫn vũ trang rất đầy đủ, còn quân ta thì
lại ít và thiếu thốn, nhưng vì độc lập và thanh bình tất cả vẫn bị khuất phục
dưới quân ta. Nhờ trí tuệ lãnh đạo và quyết định bẽ gãy gọng kiềm kẹp thủy binh
– bộ binh của giặc. Khẳng định thêm một lần nữa về bản hùng ca tuyên ngôn độc
lập “Nam Quốc Sơn Hà Nam
Đế cư”.
Tinh thần nhập thế của các nhà sư cũng được đề cao và nơi đây chính các
ngài cũng đã góp công sức không ít cho đất nước trong việc bảo vệ và phát
triển.
Chương IV: KẾT LUẬN
Nhìn chung lại,
ta thây dù các triều đại phương Bắc ra sức đồng hóa người Việt nhưng với bản
lĩnh và ý thức độc lập, tự chủ, lòng yêu nước, yêu quê hương, tổ tông, dân tộc
Việt vẫn giữ vững nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và Việt hóa những yếu tố
văn hóa ngoại nhập.
Các cuộc khởi
nghĩa có lúc giành lại quyền tự chủ, kết quả đó không phải là sản phẩm chỉ của
riêng 01 thế hệ đương thời, mà là kết quả của hàng chục thế kỷ đấu tranh kiên
cường, liên tục và toàn diện của nhân dân ta, trong đó có thành quả của cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Nó còn là tài trí thức thời của bộ
máy lãnh đạo – người lãnh đạo biết lúc nào cần trên danh nghĩa là quan lại của
Trung Hoa, và biết lúc nào cần đấu tranh vũ trang để bảo vệ độc lập cho đất
nước.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Tiến
Trình Văn Hóa Việt Nam Từ
Khởi Thủy Đến Thế Kỷ XIX, Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo Dục Việt Nam .
2 Thế Thứ
Các Triều Vua Việt Nam ,
Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo Dục Việt Nam .
3. Đại
Việt Sử Kí Toàn Thư, Cao Huy Giu dịch, NXB Văn Học.
[1] KHĂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC,
tiền biên, quyển 5, tờ 14.
[2] KHĂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC,
tiền biên, quyển 5, tờ 15.
[3] Dương Đình Nghệ là người làng Dàng
(Dương Xá, Thiệu Yên, Thanh Hóa). Làm tướng của họ Khúc
[4] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ngoại kỹ, quyển
5, tờ 21 – a)
[5] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ngoại kỹ, quyển
5, tờ 21 – a)
[6] Ngô Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt
sử ký toàn thư 1. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội 1998. tr. 216 Đại Việt sử ký toàn
thư, Tập 1, Sđd. tr. 222
[7] Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (bản kỉ, quyển
1, tờ 9 – a)